Kết quả thi HSG Quốc Gia 2024

Năm nào mình cũng có xem kết quả thi HSG QG và đổi tên các file công bố của BGD theo tên các tỉnh để dễ dò, và người xem có thể tìm xem kết quả của các tỉnh mà họ quan tâm. Năm này (2023 – 2024) cũng vậy.

Link tải kết quả tại đây.

Đề toán 2024 được đánh giá là vô cùng khó. Khi ra đề thì các thầy la làng quá trời, nhưng khi có kết quả mới biết các anh đó dạy dạo cho mấy trường có kết quả không được cao lắm.

Các tỉnh duyên hải Bắc Bộ năm nào cũng là những tỉnh mạnh nhất với truyền thống hiếu học và thông minh lâu đời.

Miền Trung có các tỉnh Bắc Trung Bộ như Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh cũng là những tỉnh có truyền thống học hành, năm nào kết quả cũng cao. Bản thân mình rất ngưỡng mộ một thầy giáo trẻ ở chuyên Hà Tĩnh năm nào cũng dẫn dắt đội tuyển đến một kết quả vô cùng tuyệt vời.

Bình Định là một tỉnh thuộc Nam trung bộ cũng có kết quả khả quan, một giải nhất môn Toán vô cùng danh giá.

Ngoài hai đại học quốc gia, thì có trường THCS-THPT Đông Du – ĐakLal cũng có những kết quả tuyệt vời. Thật đáng ngưỡng mộ về những điều mà họ đã làm được.

Một người Hội An

Người trong hình là GS Dương Quang Trung, hiện làm việc tại Đại học Memorial, Canada. Anh vừa nhận giải thưởng nghiên cứu xuất sắc, kèm khoản tài trợ 8 triệu CAD (5,9 triệu USD) của chính phủ Canada để chủ trì nghiên cứu công nghệ di động không dây thế hệ mới, theo hàng loạt tin từ các báo trong nước.

Giáo sư Trung năm nay 44 tuổi, quê ở Hội An. Anh tốt nghiệp THPT Trần Quý Cáp, Hội An rồi trở thành sinh viên ĐH Bách khoa TP.HCM chuyên ngành Viễn thông.

Đây là bước đầu cho con đường đi ra thế giới của một cậu sinh viên miền Trung.

Tốt nghiệp loại giỏi, anh lập tức thi đậu học bổng toàn phần của Chính phủ Hàn Quốc và lấy bằng thạc sĩ.

Từ Hàn, anh quyết qua châu Âu bằng cách thi đậu học bổng tới Thụy Điển học và có bằng tiến sĩ chuyên ngành Hệ thống viễn thông năm 2012.

Một năm sau, vì có tài anh được nhận vào ngạch Giáo sư của ĐH Queen’s Belfast mà không phải trải qua giai đoạn hậu Tiến sĩ. Đây là một vinh dự lớn vì Queen’s Belfast là một trong 24 trường ĐH hàng đầu của Vương quốc Anh.

6 năm sau, anh được phong giáo sư thực thụ (Full Professor) tại đại học danh giá này. Và Hội Khoa Học Kỹ thuật Hoàng gia Anh Quốc bổ nhiệm anh vào vị trí Chủ tịch nghiên cứu về vấn đề của mạng viễn thông 6G.

Tuy nhiên, giáo sư Trung lại có một bước đi mới khi chuyển qua Canada- Bắc Mỹ làm việc và nhận vinh dự mới nhất tại đại học Memorial cùng món tài trợ khủng cho nghiên cứu ở đây.

Cùng lúc, anh vẫn làm giáo sư thỉnh giảng tại Anh và được phong là giáo sư danh dự cho Đại học Thủy lợi tại VN.

Chương trình cấp tài trợ cho giáo sư Trung là Canada Excellence Research Chair (CERC) năm nay trao cho 34 học giả trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học. Mỗi nhà khoa học sẽ được nhận tài trợ nghiên cứu với hai mức, 4 hoặc 8 triệu CAD (khoảng 71-143 tỷ đồng). Tổng tài trợ là 248 triệu CAD, được rót trong 8 năm. Đây là một trong những chương trình uy tín và hào phóng nhất trong giới nghiên cứu. Và giáo sư Trung đã giành được món tài trợ lớn nhất là 8 triệu CAD trong 8 năm ( 5,9 triệu usd).

Trước đó, giáo sư Trung từng nhiều lần nhận các giải thưởng và số tiền tài trợ nghiên cứu khủng tại Anh. Vào năm 2017, anh từng nhận giải thưởng Newton Prize cho nghiên cứu xuất sắc của chính phủ Anh. Anh cũng ba lần được vinh danh cho nghiên cứu xuất sắc nhất tại hội nghị thông tin di động lớn nhất thế giới (IEEE Globecom) vào các năm 2016, 2019 và 2022.

Số tiền tài trợ mà giáo sư Trung từng nhận là 34 triệu USD. Riêng năm 2022, nhóm nghiên cứu do GS Trung dẫn dắt cùng một số nhóm khác được chính phủ Anh tài trợ 12 triệu bảng (15,2 triệu USD) để phát triển các công nghệ cho mạng di động mới, linh hoạt và có khả năng mở rộng hơn ngoài 5G và 6G.

Giáo sư Trung là một trong các nhà khoa học được thế giới chú ý vì các nghiên cứu liên quan tới mạng 6G cho tương lai. Anh đã có 2 công trình xuất sắc là “Ứng dụng lý thuyết trò chơi trong nghiên cứu tối ưu hóa tích hợp mạng vệ tinh – mặt đất cho mạng 6G” và “Ứng dụng trí tuệ nhân tạo để giải quyết bài toán về băng thông rộng cho mạng 6G”.

Một người Hội An ưu tú, xin chúc mừng giáo sư và gia đình.

CUỘC ĐỜi BI KỊCH CỦA “NGƯỜI PHỤ NỮ ĐẸP NHẤT THẾ GIỚI” PHÁT MINH RA WIFI

Mẹ đẻ của nền tảng công nghệ tiền thân của Wifi, GPS và Bluetooth – Hedy Lamarr là một phụ nữ đi trước thời đại.

Bà là một nữ diễn viên xinh đẹp của Hollywood, thu hút khán giả bằng tài năng.

Không chỉ vậy Lamarr cũng là một nhà phát minh phát triển công nghệ truyền thông không dây hiện đại. Tuy nhiên, cuộc đời của bà tràn ngập cả danh vọng và bi kịch.

Sự nghiệp điện ảnh lẫy lừng:

Lamarr sinh vào năm 1914 tại thủ đô Viên, Áo. Bà là con gái của gia đình gốc Do Thái và cha là một giám đốc ngân hàng thành đạt.

Lamarr sớm thể hiện niềm yêu thích với diễn xuất và xuất hiện trong bộ phim đầu tiên “Geld auf der Strasse”, ở tuổi 16. Bà tiếp tục học diễn xuất tại Trường Sân khấu Max Reinhardt ở Berlin (Đức), nơi bà gặp và kết hôn với người chồng đầu tiên, một doanh nhân giàu có tên Friedrich Mandl.

Mandl là một tay buôn vũ khí và tham gia các thương vụ mua bán vũ khí cho Đức quốc xã và các chính phủ phát xít ở châu Âu, theo The US National Archives. Lamarr đã tháp tùng ông trong nhiều chuyến công tác và biết rõ những cuộc trò chuyện của ông với các nhà lãnh đạo quân sự và nhà khoa học. Việc tiếp xúc với giới công nghệ quân sự sau này đóng một vai trò quan trọng trong sự nghiệp của Lamarr với tư cách là một nhà phát minh.

Cuộc hôn nhân của Lamarr và Mandl gặp nhiều sóng gió và cuối cùng Lamarr phải trốn đến Paris, Pháp để theo đuổi sự nghiệp diễn xuất. Bà đã xuất hiện trong một số bộ phim của Pháp trước khi thu hút sự chú ý của nhà sản xuất Hollywood Louis B. Mayer, người đã đề nghị bà ký hợp đồng với hãng phim MGM vào năm 1937. Lamarr đến Mỹ mà không biết tiếng Anh và phải học ngôn ngữ này một cách nhanh chóng để thành công ở Hollywood.

Những bộ phim đầu tiên của Lamarr đều thành công và bà nhanh chóng nổi tiếng với vẻ đẹp và tài năng của mình. Bà đóng vai chính trong nhiều bộ phim trong suốt những năm 1940, bao gồm “Algiers” (1938), “Ziegfeld Girl” (1941) và “Samson and Delilah” (1949).

Sự nghiệp diễn xuất của Lamarr ghi dấu ấn sâu sắc, nhưng niềm đam mê thực sự của Lamarr là dành cho khoa học và công nghệ.

“Mẹ đẻ” của nền tảng công nghệ Wifi, Bluetooth, GPS:

Không ưa thích những buổi tiệc tùng và giao du với giới Hollywood hào nhoáng, Hedy Lamarr đã dành hàng đêm để mày mò, xây dựng và thử nghiệm trong nhà xưởng.

Là một người gốc Do Thái, Lamarr luôn mang trong mình mong muốn giúp Lực lượng Đồng Minh đánh bại Đức quốc xã.

Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, Lamarr đã đồng phát triển một hệ thống dẫn đường vô tuyến cho ngư lôi của quân Đồng minh sử dụng công nghệ trải phổ và nhảy tần để tránh gây nhiễu tín hiệu dẫn đường của ngư lôi, theo The Guardian. Đáng tiếc, phát minh của Lamarr đã không được Hải quân Mỹ sử dụng trong Thế chiến thứ II, nhưng đã được dùng trong cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba (1962).

Quan trọng hơn, phương pháp chuyển đổi tần số này đã đặt nền móng cho các công nghệ liên lạc không dây hiện đại sau này như Bluetooth, Wi-Fi và GPS.

Bi kịch bị ngó lơ:

Trên thực tế, những đóng góp cho khoa học của Lamarr phần lớn bị ngó lơ vào thời điểm đó và bà ít được công nhận cho công việc của mình. Cái bóng của vai diễn quá lớn khiến nhiều người bỏ qua những đóng góp của bà cho công nghệ hiện đại.

Sau chiến tranh, Lamarr phải vật lộn để tìm kiếm chỗ đứng với tư cách là một nhà phát minh. Bà tiếp tục nghiên cứu những phát minh mới, nhưng những ý tưởng thường bị coi là lời nói “gió thoảng” của một nữ diễn viên xinh đẹp.

Phát minh công nghệ vô tuyến của Lamarr không được biết đến rộng rãi cho đến khi bà gần cuối đời, vào cuối những năm 1990 và đặc biệt thu hút sự chú ý hơn khi cáo phó của bà được công bố vào năm 2000. Kể từ đó, tin tức đã lan rộng và Lamarr đã trở thành một biểu tượng của phụ nữ trong khoa học.

Lamarr cũng phải đối mặt với một chuỗi bi kịch đời sống cá nhân. Bà đã kết hôn 6 lần và luôn kết thúc bằng ly hôn. Bà có 3 đứa con, trong đó có 1 người có chẩn đoán mắc chứng tự kỷ.

Mặc dù thành công với tư cách là một nữ diễn viên và nhà phát minh, Lamarr đã thực hiện một số khoản đầu tư và thường xuyên mắc nợ. Bà buộc phải bán nhiều tài sản để trả nợ. Bà cũng đã bị bắt nhiều lần vì các tội liên quan đến ma túy.

Năm 2000, Hedy Lamarr qua đời cô đơn trong một căn hộ nhỏ ở bang Florida (Mỹ). Di sản của Lamarr với tư cách là một biểu tượng Hollywood và nhà phát minh đột phá vẫn tiếp tục truyền cảm hứng cho những người theo đuổi kiến thức và đạt thành tựu bên ngoài lĩnh vực chuyên môn của họ.

Để sản xuất 01 viên pin 550 kg cho xe điện Tesla cần những gì?

12 tấn đá Lithium thô: Lithium là nguyên liệu thô quan trọng nhất cho pin EV. Nó được sử dụng làm cực âm của pin, là bộ phận lưu trữ năng lượng. Liti là nguyên tố tương đối dồi dào nhưng phân bố không đồng đều. Phần lớn trữ lượng lithium của thế giới nằm ở Nam Mỹ, Úc và Trung Quốc.

05 tấn khoáng chất Cobalt thô: được sử dụng làm cực âm của pin, nhưng việc sử dụng nó ngày càng giảm khi các chất hóa học pin mới được phát triển. Coban là một nguyên tố tương đối hiếm và phần lớn trữ lượng coban của thế giới nằm ở Cộng hòa Dân chủ Congo.

03 tấn quặng Niken thô: cũng sử dụng làm cực âm của pin. Nó giúp cải thiện mật độ năng lượng và hiệu suất của pin. Phần lớn trữ lượng niken của thế giới nằm ở Indonesia, Úc và Nga.

12 tấn quặng Đồng thô: Để sản xuất lá nhôm đồng dẫn điện chco pin.

51 kg Than chì thành phẩm: Để sản xuất vật liệu anode. Vật liệu anode thường được làm từ than chì, than chì cũng được trộn với chất kết dính và chất dẫn điện để tạo thành hỗn hợp sệt. Hầu hết pin lithium-ion đều sử dụng than chì tổng hợp, được sản xuất từ sản phẩm phụ của dầu mỏ, chủ yếu ở Trung Quốc.

200 kg các vật liệu phụ bao gồm: nhôm, thép, nhựa.

Đó là chưa bao gồm các chất phụ gia, thành phần hoá học để chưng cất, lọc khoáng chất. Và ước tính tiêu tốn khoảng 1 tấn dầu Diesel trong 12h cho 01 viên pin.

Xe điện được cho là “Bảo vệ môi trường” vì nó không phát thải khí thải tại chổ trong quá trình sử dụng, cũng như sử dụng năng lượng “sạch”. Nhưng thật ra nếu đánh giá một cách khách quan, có thể thấy việc “Bảo vệ môi trường” trong quá trình sử dụng xe điện không khác nào việc chuyển sự “Ô nhiễm môi trường” từ nơi này sang nơi khác.

Bộ đề kiểm tra giữa Học kì 1 Môn Toán các lớp 6,7,8,9 theo chương trình mới

1. Toán lớp 6

2. Toán lớp 7

3. Toán lớp 8

4. Toán lớp 9

Đề ôn thi chuyên môn nghiệp vụ chuyên ngành – ngành điều dưỡng đa khoa – kì thi tuyển dụng viên chức y tế tỉnh Quảng Nam năm 2022

Hy vọng sẽ giúp ích cho các bạn sau này.

Jaime Escalante

Jaime Escalante bên những học sinh đầu tiên đã vào được những tường danh tiếng của Mỹ.

Thầy giáo đã đưa 400 học sinh vào những trường danh tiếng nhất nước Mỹ.

Cuộc đời huyền thoại của thầy giáo Jaime Escalante đã được dựng thành phim bộ phim “Stand and Deliver” năm 1988, gây tiếng vang khắp thế giới.

Sinh năm 1930, sau khi tốt nghiệp đại học, Jaime Escalante làm giáo viên dạy Toán tại một trường địa phương ở Bolivia.

Năm 34 tuổi, ông đến Los Angeles, Mỹ, nhưng không xin được việc bởi không biết tiếng Anh. Mỹ cũng không công nhận chứng chỉ giáo viên của Bolivia.

Jaime Escalante bắt đầu đi học tiếng Anh trong lúc làm việc bán thời gian như rửa bát, sửa chữa máy tính… để theo học Đại học California.

Mất 10 năm mới có được chứng chỉ giáo viên, Jaime Escalante đến nhiều trường xin phỏng vấn nhưng đều bị từ chối. Cuối cùng, ở tuổi 44, ông trở thành giáo viên dạy Toán tại trường trung học Garfield High, một trong những trường thiếu thốn nhất ở Los Angeles, California.

Vừa bước vào lớp, bao nhiêu hy vọng sau 10 năm được tiếp tục đứng trên bục giảng của Jaime Escalante hoàn toàn sụp đổ. Bàn ghế, cửa sổ xộc xệch, học sinh ăn mặc kỳ quái, hét lớn: “Chúng tôi không muốn học Toán, chỉ muốn học giáo dục giới tính”. Nhiều học sinh còn thách thức: “Biến đi, thầy không được chào đón ở đây”.

Sau khi tìm hiểu, Jaime Escalante biết học sinh trong lớp đều xuất thân từ những gia đình nghèo khó, chỉ thích đánh nhau và quậy phá. Lúc đó, ông nhận ra lý do mà nhiều giáo viên trong trường thà nghỉ việc còn hơn là phải dạy lớp này.

Jaime Escalante lúc đầu cũng chỉ hy vọng thời gian nhanh trôi để kết thúc lớp học sinh cá biệt này, nhưng dần nhận ra những đứa trẻ không xấu như ông tưởng. Gia đình chúng có hoàn cảnh đặc biệt nên không dạy dỗ cẩn thận. Sự buông bỏ của nhà trường và sự thờ ơ của phụ huynh đã khiến trẻ cảm thấy bất an, thích làm loạn để gây sự chú ý, lâu dần trở thành thói quen xấu.

“Nếu bạn giáo dục con mình như một kẻ thất bại, tương lai chắc chắn chúng sẽ thành kẻ thất bại. Nếu bạn giáo dục chúng như một người chiến thắng, tương lai trẻ sẽ trở thành người thành công”, Jaime Escalante từng nói.

Người thầy sau đó quyết định không thể chỉ ngồi nhìn mà phải đưa những đứa trẻ đi đúng đường. Việc đầu tiên ông làm là tìm hiểu tâm lý học sinh trong lớp. Bởi học sinh đều có lòng tự trọng mạnh mẽ và mong muốn được công nhận, nên Jaime Escalante chuyển dạy học từ thụ động sang chủ động. Ông dán nhiều khẩu hiệu cổ vũ trong lớp và ảnh của những ngôi sao thể thao trên tường. Trước khi vào lớp, ông khuyến khích học sinh khởi động và nhảy múa như một đội cổ vũ bóng bầu dục khiến tinh thần phấn chấn.

Để thu hút học sinh nghe giảng, Jaime Escalante hiểu rằng những phương pháp dạy nghiêm túc sẽ không có tác dụng. Nhằm thu hẹp khoảng cách với học sinh, ông đã dạy theo cách mà chúng thích, ví dụ xưng hô như một ông trùm xã hội đen với những học sinh thích bạo lực. Ông ví trục x và trục y như một võ đài nơi mọi người sẽ đấm đá với nhau, và cứ thế những phương trình, công thức được ông truyền tải theo một cách hài hước nhất có thể.

Đôi khi để kích hoạt không khí lớp học, Jaime Escalante còn hóa trang cosplay, chơi các trò tương tác hay đội những chiếc mũ hài hước nhiều màu sắc để kể những chuyện cười mà ông tích lũy lâu nay. Mục đích chính của ông là để học sinh nghe và chú ý tới mình.

Có lần ông mặc đồng phục đầu bếp và cầm một con dao làm bếp vào lớp học. Bên dưới học sinh ngồi im thin thít, mọi con mắt đều nhìn chằm chằm vào người thầy. Lúc này, Jaime Escalante lấy ra một quả táo. Thực ra ông muốn giải thích phép chia toán học theo cách này. Từ đó, mỗi tiết học toán của ông đều khiến cho học sinh cảm thấy thoải mái và hứng thú hơn.

Dù hóm hỉnh, hài hước, Jaime Escalante cũng yêu cầu học sinh phải tuân thủ các quy tắc trong lớp. Nếu học sinh đến muộn hoặc gây rối trật tự, ông cũng có những hình phạt tương xứng. “Là giáo viên phải luôn tâm huyết, học sinh sẽ thấy được nhiệt huyết của mình, như vậy mới đủ điều kiện để đánh thức lòng ham học hỏi chúng”, Jaime Escalante nói.

Dần dần, khi hòa nhập được với học sinh, Jaime Escalante nghe được lời tâm sự: “Ở đây chưa ai trúng tuyển đại học. Nhà nghèo, trường tồi, không còn hy vọng gì nữa. Thầy ơi xin đừng lãng phí nỗ lực của mình”. Tuy nhiên, Jaime Escalante khẳng định: “Nếu em không thể nhìn thấy hy vọng, hãy để tôi trao nó cho em, bởi vì tôi là một giáo viên”.

Để hiện thực hóa ước mơ, Jaime Escalante khuyến khích học sinh học theo chương trình AP, cuộc thi dành riêng cho học sinh THPT lớp 11 và 12. Những học sinh theo học chương trình và đạt điểm số cao trong kỳ thi này sẽ dùng kết quả để chứng minh với hội đồng xét tuyển mình có đủ khả năng học thuật cho chương trình đại học và cao học. Ở Mỹ thời điểm đó, chỉ có 2 trường mở khóa học AP, cũng thường chỉ dành cho con nhà khá giả ở các trường tư thục.

Jaime Escalante quyết định tự mình mở lớp học bồi dưỡng. Tuy nhiên, đề xuất này đã vấp phải nhiều ý kiến phản đối. Giáo viên trong trường nói rằng đây đều là những học sinh kém, không thể thay đổi, còn phụ huynh cho rằng học Toán chẳng để làm gì, bọn trẻ nên ra ngoài kiếm tiền càng sớm càng tốt.

Tuy vậy, Jaime Escalante vẫn không bỏ cuộc. Ông khẳng định, không bao giờ được nghĩ học sinh không thể tiếp thu, chỉ cần có nhiệt huyết và phương pháp đúng đắn, giáo viên hoàn toàn có thể biến những học trò ngỗ nghịch nhất thành cần cù, hiếu học.

Ông đã dành cả thứ bảy, chủ nhật để bồi dưỡng cho học sinh muốn học AP. Những buổi đầu với học sinh vốn có nền tảng kém, Jaime cảm thấy rất vất vả, phải giảng đi giảng lại nhiều lần. Để tăng tính kỷ luật và sự quyết tâm, ông quy định học sinh đến trường sớm một tiếng và ra về muộn 2 tiếng vào các ngày trong tuần. Các lớp học cũng phải tiếp tục vào cuối tuần và ngày nghỉ.

“Nếu không liên tục cố gắng thì chẳng có thiên tài nào cả”, Jaime thường nhắc nhở học sinh. Ông cũng nói học sinh chỉ cần mang theo một thứ duy nhất mỗi ngày, đó là khát vọng thành công. Và nhiệm vụ của ông là khơi dậy khát vọng đó. Cuối cùng điều kỳ diệu đã xảy ra. Một năm sau, tất cả 18 học sinh trong lớp đều vượt qua kỳ thi AP.

Jaime và lũ trẻ ôm nhau khóc, bởi 18 học sinh sẽ được nhận vào 10 trường đại học hàng đầu của Mỹ. Nhưng lúc này, Viện Khảo thí Giáo dục Mỹ (ETS) nghi ngờ nhóm học sinh gian lận, hủy kết quả thi. Họ kết luận không thể có một trường học kém chất lượng lại có tới 18 học sinh vượt qua bài kiểm tra AP.

Khi biết tin, Jaime kiến nghị để cho học sinh của mình thi lại và nhận được sự đồng ý của ETS. Một lần nữa, cả 18 em đều vượt qua bài kiểm tra và tự tin bước vào những trường đại học tốt nhất của Mỹ.

Với thành công này, Jaime có cơ hội dạy học tại những trường chuyên và nổi tiếng, nhưng ông từ bỏ và vẫn dạy ở ngôi trường cũ. Trong hơn 35 năm dạy tiếp theo, ông tiếp tục đào tạo hơn 400 học sinh ưu tú đậu vào những trường nổi tiếng thế giới trong nhóm Ivy League, MIT và Harvard.

Jaime Escalante đã giành được “Giải thưởng Jefferson”, “Giải thưởng tinh thần tự do” và “Giải thưởng giáo dục xuất sắc” do Tổng thống Reagan trao tặng.

Jaime Escalante (giữa) nhận giải thưởng Teach Freedom Award do Tổng thống Reagan trao tặng.

SỰ THẬT về đội tuyển thi Olympic toán quốc tế và trường chuyên của Mỹ

Nhiều người nói rằng Mỹ chọn đội tuyển rất đơn giản và không luyện thi Olympic toán quốc tế. Vậy sự thật thế nào?

Mỹ tham dự Olympic toán quốc tế (viết tắt IMO) lần đầu tiên năm 1974 cùng với Việt Nam. Ngay từ lúc đó họ đã tổ chức luyện thi đội tuyển qua Chương trình Olympic Toán (1) và luyện đội tuyển hàng năm cho đến nay.

Từ năm 2011 trở đi việc chọn đội tuyển Mỹ được bắt đầu từ trước năm thi một năm bằng việc tổ chức lớp luyện thi Olympic Toán mùa hè (viết tắt là MOP). Lớp này gồm 60 học sinh được chọn từ 250 em dự kỳ thi Olympic Toán trẻ quốc gia (USAJOP). Những em này cũng được tuyển theo tổng điểm từ kỳ thi cho học sinh giỏi lớp 10 (AMC 10) và sau đó là kỳ thi học sinh giỏi chọn lọc (AIME). Như vậy, để được tham gia lớp “dự tuyển” luyện thi MOP, học sinh phải lần lượt đạt thành tích cao trong 3 kỳ thi quốc gia (6). Đáng chú ý là họ chọn đội “dự tuyển” từ học sinh lớp 10 và bồi dưỡng khi học lớp 11.

Kết thúc kỳ luyện thi Olympic Toán mùa hè họ sẽ tổ chức kiểm tra 60 học sinh trên để chọn 30 học sinh cho quá trình chọn đội tuyển của năm sau đó. Quá trình này gồm 5 vòng thi kết thúc với cuộc thi Olympic toán quốc gia (USAOM). Đội tuyển sẽ được chọn theo tổng điểm của 5 vòng thi này, không phụ thuộc vào việc có giải thi quốc gia hay không (2). Sau đó đội tuyển còn được luyện thi Olympic Toán mùa hè thêm một lần nữa. Qua đây có thể thấy cách chọn và luyện đội tuyển Mỹ rất bài bản và lâu hơn hẳn Việt Nam.

Ở Mỹ không có hệ thống trường chuyên như ở Việt Nam, nhưng ở các địa phương đều có những trường có chương trình học toán cao hơn những nơi khác. Có trường cũng tổ chức các lớp chuyên toán riêng. Để minh hoạ hãy xem 2 học sinh đầu tiên của đội tuyển Mỹ năm nay (theo thứ tự tên) là Jeff Lin và Derek Liu học ở đâu.

Jeff Lin học ở trường Lexington xếp hạng thứ 2 trong tổng số 1644 trường công của bang Massachusett (3). Trường này có hẳn khoa Toán chuyên về dạy toán “chất lượng cao” (4).

Derek Liu là học sinh của AoPS Academy Carmel Valley ở bang California. AOPS là viết tắt của Art Of Problem Solving, tạm dịch là “nghệ thuật giải toán”. Trong nhiều năm gần đây, phần lớn giải thưởng thi Olympic toán quốc gia Mỹ là của học sinh trường này (5).

Tôi không xem các thành viên khác của đội tuyển Mỹ học ở đâu. Nhưng tôi tin rằng họ phải học các trường và lớp “chuyên” và phải làm toán rất nhiều mới đủ khả năng lọt qua nhiều kỳ thi như thế để vào đội tuyển.

Năm 2022 tôi đến làm việc ở Viện Toán Mỹ (American Institute of Mathematics), có đi chơi ở Carmel và được đồng nghiệp kể về AOPS Academy. Lúc đó tôi không để ý lắm, gần đây mới biết thêm.

(1) https://www.maa.org/the-mathematical-olympiad-program-mop

(2) https://web.evanchen.cc/faq-rules.html

(3) https://www.publicschoolreview.com/lexington-high-school…

(4) https://sites.google.com/lexingtonma.org/lhsmath…

(5) https://sandiego-cv.aopsacademy.org/school/about

(6) https://artofproblemsolving.com/…/United_States_of…

Ảnh: AOPS Academy Carmel Valley

Nguồn bài viết: Thầy Ngô Việt Trung (viện Toán)